Ra đi vừa rạng chơn trời;
Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường.
Tiên rằng: Thiên các nhứt phương;
Thầy đeo đoạn thảm, tớ vương mối sầu. (80)
Quản bao thân trẻ giãi (dãi) dầu;
Mang đai Tử Lộ, quảy bầu Nhan huyên.
Bao giờ cá nước gặp duyên;
Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay?
Kể từ lướt dặm tới nay;
Mỏi mê hầu đã mấy ngày xông sương.
Ðoái nhìn phong cảnh thêm thương;
Vơi vơi dặm cũ nẻo đường còn xa.
Chi bằng kiếm chốn lân gia;
Trước là tìm bạn sau là nghỉ chưn. (90)
Việc chi than khóc tưng bừng,
Ðều đem nhau chạy vào rừng lên non.
Tiên rằng: “Bớ chú cõng (cỏng) con;
Việc chi nên nỗi (nổi) bon bon chạy hoài.
Dân rằng: Tiểu tử là ai;
Hay là một đảng Sơn đài theo tao?
Tiên rằng: cớ sự làm sao;
Xin ngừng vài bước sẽ trao một lời.
Dân nghe tiếng nói khoan thai;
Kêu nhau đứng lại bày lời phân qua. (100)
“Nhơn rày có đảng lu la;
Tên là Ðỗ (Đổ) Dự hiệu là Phong Lai.
Nhóm nhau ở chốn Sơn đài;
Người đều sợ nó có tài khôn đương.
Bây giờ xuống cướp thôn hương,
Thấy con gái tốt qua đường bắt đi.
Xóm làng chẳng dám làm chi;
Cảm thương hai ả (gả) nữ nhi mắc nàn.
Con ai vóc ngọc mình vàng;
Má đào mày liễu dung nhan lạnh lung. (110)
E khi gặp đảng hành hung;
Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu.
Thôi thôi chẳng dám nói lâu;
Chạy đi cho khỏi kẻo âu tới mình.”
Vân Tiên nổi trận lôi đình;
Hỏi thăm lũ nó còn đình nơi nao?
“Tôi xin ra sức anh hào;
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.”
Dân rằng: “Lũ nó còn đây;
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành. (120)
E khi họa hổ bất thành;
Khi không mình lại xô mình vào hang.”
Vân Tiên ghé lại bên đàng;
Bẻ cây làm gậy nhắm làng chạy vô.
Kêu rằng: Bớ đảng hung đồ;
Chớ quen thói dữ hồ đồ hại dân.
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng;
Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây?
Trước gây việc dữ tại mầy;
Truyền quân bốn phía bủa vây bịt bùng. (130)
Vân Tiên tả đột (đụt) hữu xông,
Khác nào Triệu Tử mở vòng Ðương Dương (Dang).
Lu la bốn phía vỡ tan;
Ðều quăng gươm giáo tìm đường chạy ngay.
Phong Lai chẳng kịp trở tay;
Bị Tiên một gậy thác rày mạng vong. (136)