Tai nạn thương tâm của tàu Florida không phải là trường hợp đặc biệt gì lắm ngoài biển cả. Về sau này, khi tàu Nautilus qua các vùng biển đông tàu bè, chúng tôi đã gặp nhiều xác tàu đắm mục nát trong nước. Còn dưới đáy thì nào súng lớn, nào neo, nào xích và hàng ngàn đồ vật khác bằng sắt đang gỉ ra.
Ngày 11 tháng 12, chúng tôi tới gần quần đảo Pomotou rải rác khoảng năm trăm dặm từ đông- đông nam tới tây-tây bắc. Quần đảo này có diện tích ba trăm bảy mươi dặm vuông và gồm sáu mươi nhóm đảo san hô. Nhờ đó khối đất này sớm muộn sẽ nhập làm mô5t với quần đảo kề bên, và giữa Nouvelle-Zélande và Nouvelle-Calélandedonie sẽ xuất hiện lục địa thứ năm. Một hôm tôi đề cập vấn đề đó với thuyền trưởng Nemo, nhưng ông ta trả lời tôi một cách lạnh lùng:
– Cần những con người mới chứ cần gì những lục địa mới!
Vẫn theo hướng cũ, tàu Nautilus chạy ngang qua đảo Clermont-Tonnerre, hòn đảo kỳ lạ nhất trong các nhóm đảo do thuyền trưởng Bell phát hiện ra năm 1822. Ở đây tôi có dịp quan sát các quần thể san hô đã tạo nên các đảo ở miền biển Thái Bình Dương này …
Khi tàu nổi lên mặt nước, tôi có thể nhìn bao quát cả đảo Clermont-Tonnerre chỉ hơi nhô lên một chút có rừng rậm phủ kín. Những cơn bão biển đã biến đất đá vôi ở đây thành màu mỡ. Hạt cây do bão đưa từ đất liền ra, một hôm nào đó rơi xuống đảo này, lại được bón bằng xác tôm cá và tảo thối rữa, đã làm nhú lên bao mầm xanh. Sóng biển đã ném lên bờ một quả dừa chín từ xa tới. Thế là cây cối mọc lên. Cây làm nước bốc hơi và tạo ra một con suối. Cây cối dần dần phủ kín đảo. Luồng nước biển đã đưa tới đây các vi sinh vật, côn trùng cùng với những thân cây bị nhổ bật lên từ những hòn đảo bên. Rùa bắt đầu tới đây đẻ trứng. Chim chóc bay tới làm tổ trên những cây non. Thế giới động vật dần dần phát triển sự sống ở đây. Tiếp đó con người xuất hiện. Anh ta bị màu xanh tươi của cây cối và đất đai phì nhiêu hấp dẫn. Những hòn đảo san hô – một sáng tạo vĩ đại của các sinh vật vô cùng nhỏ bé – đã được hình thành như vậy.
Đến gần tối, đảo Clermont-Tonnerre khuất hẳn. Tàu Nautilus thay đổi hẳn hướng đi. Vượt qua chí tuyến nam ở 135 độ kinh, tàu chạy về phía tây bắc. Mặc dù mặt trời nhiệt độ nóng bỏng, chúng tôi vẫn không cảm thấy nóng vì ở độ sâu ba mươi, bốn mươi mét, nhiệt độ nước không quá 10 – 12 độ.
Ngày 15 tháng 12, tàu đi ngang quần đảo Société và Taiiti diễm lệ, hoàng hậu của Thái Bình Dương.
Tàu đã đi được tám ngàn một trăm hải lý. Sau đó nó chạy vào khoảng giữa quần đảo Tonga-Tabou và quần đảo Người Đi Biển rồi vượt qua quần đảo Viti. Quần đảo này được Tasman phát hiện ra năm 1643. Cùng năm đó, Toricelli phát minh ra phong vũ biểu và vua Louis XIV lên ngôi. XIn để bạn đọc phán xét xem sự kiện nào đó ích lợi hơn cho loài người …
Đã một tuần nay thuyền trưởng Nemo không xuất hiện. Cuối cùng, sáng 27 tháng 12, ông ta bước vào phòng khách, tự nhiên thoải mái tựa như chúng tôi vừa chia tay với ông ta năm phút trước đây. Lúc đó tôi đang tìm vị trí con tàu chạy trên bản đồ. Nemo đến chỗ tôi, chỉ vào một điểm trên bản đồ rồi nói:
– Vanikoro.
Địa danh này tác động đến tôi một cách thần kỳ. Đó là tên những hòn đảo, nơi đoàn tàu của La Pé rouse bị đắm.
Tôi giật mình hỏi:
– Tàu Nautilus chạy về phía Vanikoro ư, thưa thuyền trưởng?
– Thưa giáo sư, vâng.
– Phải chăng tôi sẽ có dịp đến những hòn đảo nổi tiếng, nơi tàu Boussole và Astrolabe bị đắm?
– Vâng, nếu giáo sư muốn.
– Thế đến Vanikoro còn xa không ạ?
– Thưa giáo sư, Vanikoro đây rồi.
Tôi cùng Nemo lên boong rồi chăm chú nhìn về chân trời.e6O73 phía đông bắc hiện lên hai hòn đảo to nhỏ khác nhau nhưng chắc cùng nguồn gốc núi lửa, có một hàng rào san hô bao quanh khoảng bốn mươi hải lý. Chúng tôi đã tới gần đảo, đúng hơn là tới cửa một vũng nhỏ.
Cây cối xanh tươi phủ kín đáo, từ bờ biển tới đỉnh núi cao.
Tàu vượt qua một eo biển hẹp để vào phía trong hàng rào san hô. Dưới bóng những cây sú, chúng tôi thấy rõ bóng những thổ dân đang hết sức ngạc nhiên theo dõi con tàu. Có lẽ họ tưởng tàu hình thoi là một con cá voi mà họ cần đề phòng.
Thuyền trưởng Nemo hỏi to6i đã biết gì về cái chết của La Pérouse.
– Thưa thuyền trưởng, tôi cũng biết như mọi người thôi.
– Giáo sư có thể thuật lại cho tôi những điều mọi người đều biết không? – Nemo hỏi hơi mỉa mai.
– Thưa vâng!
Và tôi bắt đầu kể lại cho ông ta nghe nội dung những tin tức cuối cùng do Dumont d’Urville báo về.
Sau đây là tóm tắt những tin tức đó.
Năm 1875, La Pérouse và trợ tá của ông ta là thuyền trưởng De Langle được vua Louis XVI phái đi vòng quanh trái đất trên hai chiếc tàu Boussole và Astrolabe và bị mất tích.
Năm 1791, chính phủ Pháp lo lắng về số phận hai chiếc tàu chiến của La Pérouse nên đạ thành lập một đội tàu đi cứu gồm hai chiếc Recherche và Espérance dưới quyền chỉ huy của Bruni d’Entrecasteaux. Hai tàu này nhổ neo ở cảng Brest ngày 28 tháng 9.
Hai tháng sau, theo báo cáo của một người tên là Bowen, chỉ huy tàu Albermale, thì người ta đã thấy những mảnh tàu vỡ ở bờ biển Nouvelle-Géorgie. Nhưng Bruni d’Entrecasteaux không biết tin đó – vả lại nó cũng khá mơ hồ – nên vẫn cho tàu chạy về đảo Amirauté, theo báo cáo của thuyền trưởng Hunter, là nơi tàu La Pérouse bị đắm.
Nhưng cuộc tìm kiếm của Bruni d’Entrecasteaux không đem lại kết quả gì. Hai tàu đi cứu đã đi qua Vanikoro mà không dừng lại. Chuyến đi kết thúc một cách bi thảm vì chín Bruni d’Entrecasteaux, hai thuyền phó và nhiều thủy thủ bị chết.
Người đầu tiên dò ra đúng vết tích của đoàn tàu La Pérouse là thuyền trưởng Dillon, một con sói biển lão luyện, rất thông thạo Thái Bình Dương. Ngày 15 tháng 5 năm 1824, tàu Saint Patrick của Dillon đi ngang qua đảo Tikopia thuộc nhóm đảo New Herbrides. Tới đây, một thổ dân chèo thuyền độc mộc ra bán cho Dillon một cái chuôi kiếm bằng bạc trên có khắc chữ. Người này kể lại cho Dillon nghe rằng sáu năm trước đây, anh ta thấy trên đảo Vanikoro có hai người Âu trong số thủy thủ của hai chiếc tàu bị đắm vì va phải dải đá ngầm gần đảo này.
Dillon hiểu ngay đó là hai chiếc tàu của La Pérouse bị mất tích và đã làm cho toàn thế giới xúc động. Dillon quyết định đến Vanikoro, nơi theo lời người thổ dân hãy còn vết tích của tàu đắm. Nhưng gió và luồng nước không cho phép Dillon thực hiện được ý định ấy.
Ông ta quay về Calcutta. Ở đây Dillon đã làm cho Công ty châu Á chú ý tới phát hiện của mình và giao cho ông ta một chiếc tàu cũng có tên là Recherche. Ngày 23 tháng giêng năm 1827, Dillon cho tàu nhổ neo rời Calcutta, có một đại diện Pháp đi theo.
Sau nhiều lần ngừng lại ở Thái Bình Dương, ngày 7 tháng 7 năm 1827, tàu Recherche thả neo ở chính cái vũng nơi tàu Nautilus đang đỗ. Dillon tìm thấy ở đây nhiều di vật của tàu đắm; mấy cái neo, các loại dụng cụ hàng hải và một cái chuông bằng đồng đen có dòng chữ đề “Bazin m’a fait” và nhãn hiệu của xưởng công binh Bruni d’Entrecasteaux năm 1785. Không còn nghi ngờ gì nữa!
Dillon tiếp tục tìm kiếm di vật và đã ở nơi xảy ra tai nạn tới tháng 10. Sau đó ông ta cho tàu nhổ neo và về Calcutta bằng đường Nouvelle-Zélande. Ngày 7 tháng 4 năm 1828, Dillon về tới Pháp và được vua Charles X tiếp đón ân cần.
Cũng trong thời gian ấy, Dumont d’Urville, chỉ huy tàu Astrolabe, chẳng hay biết gì về phát hiện của Dillon, nên vẫn lên đường tìm kiếm nơi tàu đắm. Lúc đó, một người thợ săn cá voi cho biết rằng thổ dân Louisiade và Nouvelle-Calédonie hiện đang giữ một số huy chương và một huân chương chữ thập thánh Louis.
Dumont d’Urville lên đường và cho tàu thả neo ở Hobart Town hai tháng sau khi Dillon rời Vanikoro. Đến đây ông ta được biết về kết quả tìm kiếm của Dillon. Ngoài ra, ông ta còn nghe tin báo của một người tên là James Hobbs, thuyền phó tàu Union từ Calcutta đến khẳng định rằng khi tới một hòn đảo nằm ở độ vĩ 8,18 độ và độ kinh đông 156,30 độ, Hobbs thấy thổ dân có những thanh sắt dài và những mảnh vải đỏ.
Dumont d’Urville lúng túng trước những tin tức trái ngược đó và không biết có nên tin không. Tuy vậy, ông ta vẫn cho tàu chạy teo đường Dillon đã đi.
Ngày 9 tháng 2 năm 1828, tàu Astrolabe tới đảo Tikopia. Sau khi lấy một người trước là thủy thủ, nay sinh cơ lập nghiệp ở đây, lên tàu làm hoa tiêu và phiên dịch, tàu chạy về Vanikoro. Ngày 20 tháng 2, tàu vượt qua hàng rào san hô rồi vào vũng.
Ngày 23 tháng 2, thủy thủ tàu Astrolabe đi vòng quanh đảo và chỉ mang về một số mảnh tàu vỡ ít giá trị. Thổ dân từ chối không chỉ cho họ chỗ tàu đắm, lấy cớ là không hiểu. Thái độ của thổ dân thật đáng nghi ngờ. Có lẽ họ đã đối xử tàn tệ với những người bị đắm tàu và sợ Dumont d’Urville đến để trả thù cho La Pérouse và những người xấu số cùng đi.
Cuối cùng, ngày 26 tháng 2, bị các tặng phẩm cám đỗ và hiểu rằng sẽ không bị trả thù, các thổ dân mới chỉ cho thuyền phó M. Jacquinot nơi tàu đắm.
Ở đó, dưới độ sâu bảy, tám mét, neo, súng đại bác và các thứ khác bằng kim loại đã bị phủ một lớp vôi. Anh em thủy thủ vất vả lắm mới kéo lên được một chiếc neo nặng hơn bảy trăm ki lô gam, một khẩu đại bác và hai khẩu súng cối.
Hỏi thổ dân, Dumont d’Urvilee được biết thêm rằng, sau khi cả hai tàu vấp phải hàng rào san hô bị đắm, La Pérouse nhặt những mảnh vỡ để đóng một chiếc thuyền nhỏ. Ông ta lại lên đường, để lại bị đắm một lần nữa. Nhưng ở đâu thì chẳng ai hay.
Thuyền trưởng tàu Astrolabe dựng một đài kỷ niệm La Pérouse và các thủy thủ dưới bóng cây sú. Đó là một hình tháp bốn cạnh, đơn giản, đặt trên bệ san hô.
Dumont d’Urvilee muốn nhổ neo ngay. Nhưng thủy thù bị sốt rét kịch liệt và bản thân Dumont cũng bị ốm. Mãi tới 17 tháng 3, ông ta mới lên đường về được …
Đó là tất cả những gì tôi có thể thuật lại cho thuyền trưởng Nemo nghe. Nemo nói:
– Thế là cho tới nay vẫn chưa biết chiếc thuyền La Pérouse d9o1ng sau này bị đắm ở đâu à?
– Thưa không.
Nemo không trả lời mà chỉ ra hiệu mời tôi theo vào phòng khách. Tàu Nautilus lặn xuống mấy mét, cánh cửa sắt mở ra.
Tôi chạy tới cửa, và giữa đám san hô, giữa ngàn vạn con cá nhỏ tuyệt đẹp, tôi nhận ra những mảnh tàu vỡ, những đại bác, neo … tóm lại, những bộ phận mà Dumont d’Urville không lấy lên được.
Tôi đang mải xem những di vật đáng buồn ấy thì thuyền trưởng Nemo nói:
– Thuyền trưởng La Pérouse lên đường ngày 7 tháng 12 năm 1785 với hai tàu Boussole và Astrolabe. Thoạt tiên, ông ta lập căn cứ ở Botany Bay, sau đó đến quần đảo Société, Nouvelle-Calédonie, Santa Cruz rồi thả neo ở Namouka nằm trong nhóm đảo Hawaii. Cuối cùng, tàu Boussole của La Pérouse tiến gần đến hàng rào san hô, hồi đó các nhà đi biển chưa biết, va phải dải đá ngầm gần bờ biển phía nam. Tàu Astrolabe vội đến cứu và cũng vấp phải dải đá ngầm đó. Tàu Boussole bị đắm ngay tức khắc. Tàu Astrolabe bị mắc cạn còn đứng được mấy ngày. Thổ dân trên bờ đối xử với những người gặp nạn khá tốt. La Pérouse lên bờ và bắt đầu đóng một chiếc thuyền nhỏ bằng những mảnh vỡ của hai chiếc tàu bị đắm. Một số thủy thủ tự nguyện ở lại Vanikoro. Những người còn lại bị ốm đau kiệt quệ thì theo La Pérouse đi về hướng quần đảo Salomon và hy sinh hết ở gần bờ biển phía tây của hòn đảo chính của quần đảo này!
– Sao thuyền trưởng biết được điều đó? – Tôi sửng sốt.
– Tôi tìm thấy vật này ở nơi đắm tàu cuối cùng đây!
Nemo cho tôi xem một cái tráp bằng sắt tây, trên nắp có quốc huy nước Pháp, đã bị gỉ trong nước biển mặn. Khi ông ta mở nắp ra, tôi thấy một tờ giấy cuộn tròn đã ngả màu vàng nhưng vẫn đọc được.
Đó là chỉ thị của Bộ trưởng Hải quân Pháp gửi thuyền trưởng La Pérouse có lời phê của chính vua Louis XVI viết ở lề!
– Đó là cái chết xứng đáng của một thủy thủ! – Nemo nói. – La Pérouse đã an nghỉ dưới nấm mồ san hô. Còn cái gì yên tĩnh hơn nấm mồ đó nữa? Cầu Thượng đế cho tôi và các bạn tôi cũng được như vậy!