Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Hành hải đông lai niệm chính ân,
Trung Hoa thanh giáo đại vô ngân.
Hoàng phong cảnh ngưỡng sơ chiêm khuyết,
Đẩu tọa thao bồi hạnh kiến quân.
Vận dật cầm đường (1) tri chính lý,
Xuân hồi hoa huyện nhạ hương phân.
Vu từ chuẩn nghĩ thư hoài mộ,
Khuy quản thâm tàm thuyết báo văn (2).
Dịch nghĩa: Tặng Chánh đường huyện Đông Quan Phạm Văn An
Thuyền từ đông tới ý ân cần,
Thanh giáo Trung Hoa lớn vô ngần.
Phong hóa nhà vua vốn ngưỡng mộ mới được vào chiêm bái cửa khuyết,
May gặp ngài tiếp được ngồi trên ghế đẩu.
Thanh nhã chốn cầm đường biết được lẽ chính,
Xuân về huyện hoa sự nức hương thơm.
Lời văn nông cạn chỉ muốn giải bày lòng mến mộ,
Thẹn mình dòm ốn xem văn con báo.
Chú thích
(1): Cầm đường: Bật Tử Tiện, người nước Lỗ, đời Xuân Thu, Trung Quốc. Ông làm quan huyện ở Thiên Phủ, vừa gãy đàn vừa làm việc mà dân lại ưa. Về sau chữ “cầm đường” ý chỉ chốn công đường.
(2): Cả câu có nghĩa: thẹn tầm mắt hẹp hòi, không nhìn thấy hết được cái đức của người quân tử.
Hoài Anh dịch thơ
Từ đông tới, ý ân cần,
Trung Hoa thanh giáo vô ngần lớn lao.
Mới đây cửa khuyết được vào,
Gặp ngài thù tiếp xiết bao thâm tình.
Cầm đường, lẽ chính phân minh,
Xau6n về hoa huyện hương lành nức xông.
Lời quê mong giải tấm lòng,
Ống dòm văn báo, hẹp nông thẹn mình.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.